Mother Teresa Là Ai - Mẹ Têrêsa Calcutta: Tiểu Sử Và Chứng Từ

MẸ TÊRÊXA: TIỂU SỬ VÀ CHỨNG TỪ

Bạn đang xem: Mother Teresa Là Ai - Mẹ Têrêsa Calcutta: Tiểu Sử Và Chứng Từ

"Theo huyết thống, tôi làngười Anbani. Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ. Theo đức tin, tôi là một nữtu công giáo. Theo ơn gọi, tôi thuộc về thế gian. Theo con tim, tôi hoàn toànthuộc về Trái Tim Chúa Giêsu" (Mẹ Têrêxa)

*

Với dáng người nhỏ bé, nhưngvới một đức tin sắt đá, Mẹ Têrêxa thành Calcutta được giao phó sứ mạng công bốtình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại, đặc biệt đối với nhữngngười bần cùng nhất. "Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian và Ngườisai chị em chúng ta ra đi để biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của Người đốivới người nghèo". Mẹ có một tâm hồn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô, mộttâm hồn bùng cháy tình yêu đối với Ngài và bị thôi thúc bởi một mong ước duynhất: "xoa dịu cơn khát của Chúa: khát tình yêu và khát các linh hồn".

Thời thơ ấu

Agnes GonxhaBojaxhiu sinh ngày 26 tháng 08 năm 1910, vàchịu phép rửa ngay hôm sau, tại Skopje, Macedonia. Gia đình cô thuộc cộng đồngngười Anbani. Đây là một gia đình công giáo, mặc dù đa số người Anbani ở đấytheo Hồi Giáo. Thời bấy giờ, Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ cai trị đất nước. Cha cô, ôngNikola, là một doanh nhân. Ông làm chủ một công ty và một cửa hàng thực phẩm.Ông thường du hành đó đây, biết nhiều thứ tiếng và rất quan tâm đến chính trị.Ông là một thành viên của Hội Đồng người Anbani. Cùng với vợ mình là bà Drana,ông đã dạy cho Agnes những bài học bác ái đầu tiên.

Khi Agnes lên 9, năm 1919, chacô qua đời một cách đột ngột. Bà Drana phải một mình bươn chải hầu nuôi dạy bangười con là Aga (1904), Lazar (1907) và Agnes Gonxha (1910). Để sinhsống, bà lao động vất vả qua nghề thêu may. Dù vậy, bà vẫn dành thì giờ để giáodục con cái. Gia đình cầu nguyện mỗi tối, đi nhà thờ hằng ngày, lần chuổi MânCôi mỗi ngày trong suốt tháng Năm và chuyên cần tham dự các lễ kính Đức Mẹ. Họcũng luôn quan tâm giúp đỡ những người nghèo khổ và túng thiếu đến gõ cửa nhàhọ. Trong các kỳ nghỉ, gia đình có thói quen đến tĩnh tâm tại một nơi hànhhương kính Đức Mẹ, ở Letnice.

Agnes rất thích đi nhà thờ, côcũng thích đọc sách, cầu nguyện và ca hát. Mẹ cô tình nguyện chăm sóc một phụnữ nghiện rượu ở gần đấy. Mỗi ngày hai lần, bà đến rửa ráy và cho người phụ nữấy ăn, đồng thời bà cũng chăm sóc một bà góa có 6 con. Những ngày bà không điđược, thì Agnes thay bà đi làm các việc bác ái đó. Khi bà góa qua đời, nhữngngười con của bà đến sống với bà Drana như con ruột của mình.

Ơn Gọi

Những năm trung học, cô Agnesdùng phần lớn thời gian để hoạt động trong hội Đạo Binh Đức Mẹ (Legio Mariae).Vì giỏi ngoại ngữ, cô giúp một linh mục gặp khó khăn trong ngôn ngữ, cô dạygiáo lý và đọc rất nhiều sách về các nhà thừa sai Slovenia và Croatia ở Ấn Độ.Khi lên 12, lần đầu tiên cô mong muốn dâng đời mình để làm việc Chúa, hiến trọnđời mình cho Chúa để Người quyết định. Nhưng cô phải làm sao để biết chắc chắnlà Chúa có gọi cô hay không?

Năm 18 tuổi là năm trọng đại.Cô quyết định. Hai năm trước đó, cô đã đến tĩnh tâm nhiều lần tại Letnice và nhận rarõ ràng là cô sẽ phải đi truyền giáo ở Ấn Độ. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác LênTrời năm 1928, cô đến Letnice cầu nguyện xin Đức Mẹ chúc lành trước khi ra đi. Côchuẩn bị gia nhập dòng Đức Mẹ Lorette, một hội dòng đang hoạt động tích cực tạiẤn Độ.

Ngày 25 tháng 09, cô lên đường. Cả cộng đồngtiễn cô ra ga: nào bạn hữu, nào láng giềng già trẻ, và dĩ nhiên cả Mẹ và bà chịAga. Mọi người đều khóc.

*

Cô đi qua Zagreb, Áo, Thụy Sĩ,Pháp và đến Luân Đôn, rồi từ đấy vào một tu viện gần Dublin là nhà mẹ của HộiDòng Đức Mẹ Lorette. Tại đấy, cô học nói tiếng Anh và sống nếp sống nữ tu. Ngàymặc áo dòng, cô chọn tên là Têrêxa, để tưởng nhớ chị thánh Têrêxa Hài Đồng ởLisieux, nơi mà cô dừng chân trên đường đến Luân Đôn. Cùng thời gian này cô làmcác thủ tục giấy tờ và năm 1928 cô khởi sự cuộc hành trình đầu tiên đến với Ấn Độ:đất nước ước mơ của cô! Cuộc hành trình này thật gian nan. Có vài chị em nữ tuđi cùng tàu với cô nhưng phần đông hành khách thì theo Anh giáo. Suốt nhiềutuần lễ, họ không được dự lễ và rước lễ, kể cả ngày Giáng Sinh. Tuy nhiên, họcũng làm một máng cỏ, lần hạt và hát thánh ca Giáng Sinh.

Đầu năm 1929 họ đến Colombo,rồi đến Madras và cuối cùng là Calcutta. Họ tiếp tục đi đến Darjeeling, dướichân dãy Hy mã lạp sơn, nơi mà người nữ tu trẻ sẽ hoàn tất thời gian huấnluyện. Ngày 23 tháng 05 năm 1929, chị Têrêxa vào tập viện và hai năm sau chịkhấn lần đầu. Ngay sau đó, chị được chuyển đến Bengali để giúp đỡ các chị trongmột bệnh viện nhỏ hầu chăm sóc các bà mẹ đau yếu, đói khát và không nơi nươngtựa. Chị bị đánh động trước nỗi khốn cùng vô biên tại nơi này.

Nữ Tu và Giáo viên

Sau đó, chị được gởi đếnCalcutta để học sư phạm. Khi nào có thể, chị đều đi giúp chăm sóc bệnh nhân.Khi ra trường, chị trở thành giáo viên và mỗi ngày phải đi xuyên qua thành phố.Công việc đầu tiên của chị là lau phòng học. Chẳng bao lâu, các em bé yêu mếncô giáo vì sự nhiệt tình và lòng trìu mến của cô, nên số học sinh lên đến batrăm em. Ở một khu khác trong thành phố, còn 100 em nữa. Chị nhìn thấy nơi cácem ở và đồ các em ăn. Cảm được sự chăm sóc và tình yêu của chị, các em gọi chịlà ‘ma’ (mẹ). Những ngày chúa nhật, chị đi thăm viếng gia đình các em.

Ngày 24 tháng 05 năm 1937, chịkhấn trọn đời ở Darjeeling và trở thành, như lời chị nói, “hiền thê của ChúaGiêsu cho đến đời đời”. Chị được cử làm hiệu trưởng một trường phổ thông cơ sởtại trung tâm Calcutta, dành cho nữ sinh Bengali. Đôi khi chị cũng đích thândạy sử địa. Cạnh trường là một trong những khu ổ chuột lớn nhất Calcutta. ChịTêrêxa không thể nhắm mắt làm ngơ được: Ai chăm sóc cho những người nghèo sốnglang thang trên đường phố đây? Tinh thần bác ái toát ra từ những bức thư của mẹchị nhắc lại tiếng gọi căn bản: hãy chăm sóc người nghèo.

Hội đoàn Legio Mariae cũng hoạtđộng trong trường này. Cùng với các nữ sinh, chị Têrêxa thường đi thăm bệnhviện, khu ổ chuột, người nghèo. Họ không chỉ cầu nguyện suông. Họ cũng nghiêmtúc trao đổi về những gì mình thấy và làm. Cha Henry, một linh mục dòng Tênngười Bỉ, là vị linh hướng của chị; ngài gợi ý nhiều điều trong công tác này.Ngài hướng dẫn chị Têrêxa trong nhiều năm. Qua các gợi ý của ngài, chị càngngày càng mong muốn phục vụ người nghèo, nhưng bằng cách nào đây?

‘Ơn gọi trong ơngọi’

Với tất cả những thao thức ấy,chị đi tĩnh tâm ngày 10 tháng 09 tại Darjeering. Sau này chị nói:"đấy là chuyến đi quan trọng nhất trong đời tôi". Đấy chính là nơi mà chị thực sự nghe được tiếngChúa: "Hãy đến làm ánh sáng cho Thầy”". Sứ điệp của Người rất rõ ràng: chị phải rờitu viện để giúp đỡ những kẻ khốn khổ nhất và cùng sống với họ. "Đấy là mộtmệnh lệnh, một bổn phận, một xác tin tuyệt đối. Tôi biết mình phải làm gì,nhưng không biết phải làm thế nào". Ngày 10 tháng 09 là một ngày quantrọng đến nỗi Hội Dòng gọi ngày này là ‘ngày linh hứng’ (inspiration day).

Chị Têrêxa cầu nguyện, trình bày cho vài chị khác, tham khảo ý kiến mẹ bềtrên, và mẹ bảo chị đến gặp đức tổng giám mục Calcutta, Đức Cha Perrier. Chịgiải thích cho ngài về ơn gọi của mình, nhưng đức cha không cho phép. Ngài đãtrao đổi với các cha dòng Tên Henry và Celeste Van Exem, là những vị biết rõchị Têrêxa. Các ngài xem xét mọi mặt vấn đề: Ấn Độ sắp được độc lập và chịTêrêxa lại là một người Âu! E rằng chị sẽ gặp những nguy hiểm về chínhtrị và nhiều vấn đề khác xuất phát từ việc phân biệt sắc tộc. Liệu Rôma có phêchuẩn quyết định này chăng? Đức cha khuyên chị cầu nguyện một năm nữa trước khithực hiện quyết định này, nếu không thì nên gia nhập dòng các Nữ Tử thánh Anna,những nữ tu mặc sari xanh đang hoạt động cho người nghèo. Chị Têrêxa nghĩ rằngđấy không phải là con đường thích hợp cho mình. Chị muốn sống cùng với ngườinghèo. Một năm sau, khi chị Têrêxa trình lên ý định mình, đức tổng giám mụcmuốn cho phép, nhưng ngài bảo tốt hơn là chị hãy xin phép Rôma và Mẹ bề trêntổng quyền của chị ở Dublin. Chị lại phải chờ đợi một thời gian khá lâu để nhậnđược quyết định từ trung ương.

Quyết định

Tháng 08 năm 1948, chị Têrêxa được phép rời cộng đoàn Lorette với điều kiệnlà tiếp tục tuân giữ các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Chị chiatay với chị em mình năm 38 tuổi, rời tu phục dòng Lorette để mặc lấy chiếc sarirẻ tiền màu trắng viền xanh. Trước hết, chị đến Patna để theo học một khóa huấnluyện y tá cùng với các nữ tu tại đấy. Chị thấy rõ ràng là chị chỉ có thể giúpđỡ người nghèo trong các căn nhà bẩn thỉu bệnh hoạn của họ nếu chị biết cáchphòng bệnh và chữa bệnh. Kiến thức y khoa là điều kiện không thể thiếu được hầuchu toàn ơn gọi mới của mình.

Vị bề trên ở Patna, một bác sĩ, đã cho chị một lời khuyên khôn ngoan khichị tỏ ý muốn ra sống giữa những người nghèo và chăm sóc họ. Chị bảo rằng chịmuốn sống chỉ bằng cơm với muối, giống như người nghèo, và vị bề trên đáp lạirằng đấy là cách hay nhất để cản trở chị khỏi phải đi theo ơn gọi của chị: nếpsống mới đòi hỏi ở chị một sức khoẻ thật vững và thật tốt.

Sau khi trở về Calcutta, chị Têrêxa đến với các khu ổ chuột và đường phố,thăm viếng và giúp đỡ người nghèo. Toàn bộ tài sản của chị vẻn vẹn là một cụcxà phòng và năm rupi (một đôla = 45 rupi; và 5 rupi = dưới 2000 VNĐ). Chị giúptắm các em bé và rửa các vết thương. Người nghèo rất ngạc nhiên: Cái bà ngườiÂu mặc chiếc sari nghèo nàn này là ai vậy? Mà bà nói thông thạo tiếng Bengali!Bà lại đến giúp họ rửa ráy, lau chùi và chăm sóc họ nữa chứ! Thế rồi chị bắtđầu dạy các em bé nghèo học chữ, học cách rửa ráy và giữ vệ sinh. Sau đấy chịmướn được một phòng nhỏ để làm lớp học.

Phần chị, chị vẫn tạm trú tại nhà các Chị Em Người Nghèo. Chúa là nơi nươngtựa của chị để có được những sự trợ giúp vật chất. Và Người luôn có mặt: lúcnào chị cũng tìm ra thuốc men, quần áo, thức ăn và chỗ ở để đón người nghèo vàchăm sóc họ. Vào giữa trưa, các em bé được uống một ly sữa và nhận một miếng xàphòng, nhưng đồng thời các em cũng được nghe nói về Chúa, Đấng Tình Yêu, và -ngược với cái thực trạng rành rành trước mắt các em - Người yêu thương các em,thực sự yêu thương các em.

Một thời điểm cảm động

Một hôm, một thiếu nữ Bengali, xuất thân từ một gia đình khá giả và là cựuhọc sinh của Mẹ Têrêxa, muốn đến ở với Mẹ mà giúp một tay. Đây là một thời điểmcảm động. Nhưng Mẹ Têrêxa rất thực tế: Mẹ nói về sự nghèo khó toàn diện, vềnhững khía cạnh khó chịu của công việc Mẹ làm. Mẹ đề nghị thiếu nữ chờ đợi mộtthời gian nữa.

Ngày 19 tháng 03 năm 1949, thiếu nữ ấy trở lại trong một chiếc áo nghèo nànvà không mang trên người một món nữ trang nào. Cô đã quyết định. Cô là ngườiđầu tiên gia nhập cộng đoàn của Mẹ Têrêxa và lấy tên khai sinh của Mẹ là Agnes.Những thiếu nữ khác nối tiếp cô: vào tháng 05 cộng đoàn có ba người, tháng 11là năm người, năm sau đó là bảy người. Mẹ Têrêxa thiết tha cầu nguyện để cóđược nhiều ơn gọi hơn nữa cho Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Có quá nhiều việc phải làm.Các chị em thức dậy thật sớm, cầu nguyện lâu giờ, dự thánh lễ để kín múc sứcmạnh cho đời sống thiêng liêng hầu thực thi những công việc phục vụ ngườinghèo. Tạ ơn Chúa, có một ông tên là Gomes đã dâng tặng tầng cao nhất của cănnhà mình cho cộng đoàn Mẹ Têrêxa. Đây cũng là năm mà Mẹ Têrêxa lấy quốc tịch ẤnĐộ.

Xem thêm: amanda britain's got talent là ai

Mẹ Têrêxa nhìn cộng đoàn lớn lên và biết rằng Mẹ có thể nghiêm túc nghĩ đếnviệc sáng lập một hội dòng. Muốn xây dựng hiến pháp đầu tiên, Mẹ tham khảo ýkiến của hai người đã từng giúp Mẹ trước đây: các cha dòng Tên Julien Henry vàCelest Van Exem. Vị linh mục đọc lại lần cuối là cha De Gheldere. Giờ đây"hiến pháp của Hội Dòng Thừa Sai Bác Ái" có thể trình lên đức tổnggiám mục, và ngài gởi về Rôma để xin phê chuẩn.

Đầu mùa thu, sắc lệnh phê chuẩn của Đức Thánh Cha đến, và ngày 7 tháng 10năm 1950, lễ Mân Côi, nghi thức khánh thành diễn ra trong nhà nguyện của chịem. Đức tổng giám mục cử hành thánh lễ và cha Van Exem đọc sắc lệnh thành lập. Vàolúc ấy, có 12 chị em. Không đầy 5 năm sau, cộng đoàn được nâng lên thành hộidòng Tòa Thánh, có nghĩa là trực thuộc Đức Thánh Cha.

Những lãnh vực khác

Muốn đáp ứng trọn vẹn hơn các nhu cầu vật chất và thiêng liêng của ngườinghèo, Mẹ Têrêxa sáng lập:

 Năm 1963: Tu hội Anh Em Thừa Sai Bác Ái.

 Năm 1976: Nhánh nữ tu chiêm niệm.

 Năm 1979, Các Nam tu sĩ chiêm niệm.

 Năm 1984, Hội linh mục Thừa Sai Bác Ái.

Tuy nhiên, thao thức của Mẹ không dừng lại nơi những người có ơn gọi tu trìmà thôi. Mẹ thiết lập hội:

 Những Cộng Tác Viên với Mẹ Têrêxa và nhữngCộng Tác Viên Bệnh Tật Và Đau Khổ, gồm những người thuộc nhiều quốc tịch khácnhau mà Mẹ chia sẻ tinh thần cầu nguyện, đơn sơ, hy sinh và công tác tông đồqua những việc làm hèn mọn vì tình yêu. Tinh thần này cũng thôi thúc Mẹ thiếtlập hội:

 Giáo Dân Thừa Sai Bác Ái.

 Để đáp lại yêu cầu của nhiều linh mục, năm1981, Mẹ Têrêxa khởi xướng phong trào Corpus Christi dành những linh mục nàomuốn chia sẻ linh đạo và đặc sủng của Mẹ.

Trong những năm lớn mạnh đó, thế giới bắt đầu chú ý đến Mẹ và các côngtrình mà Mẹ đã khởi xướng. Mẹ nhận được nhiều giải thưởng:

Giải Padmashri của Ấn Độ, năm 1962.

Giải Hoà Bình của Đức Giáo Hoàng GioanXXIII, năm 1971.

Giải Nêru vì có công thăng tiến nền hòabình và sự thông cảm trên thế giới, năm 1972.

Giải Nobel Hòa Bình, năm 1979; trongkhi đó, các phương tiện truyền thông càng ngày càng ca tụng Mẹ hết lời qua cáccông việc Mẹ làm. Mẹ đón nhận tất cả ‘vì vinh danh Thiên Chúa và nhân danhngười nghèo’

Chứng từ của một cuộc đời.

Toàn bộ cuộc đời và công trình của Mẹ Têrêxa là một chứng từ cho niềm vuitrong yêu thương, cho sự cao cả và phẩm giá của mỗi một con người, cho giá trịcủa từng việc nhỏ nhất được thực thi với đức tin và tình yêu, và trên hết, chosự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.

Nhưng có một khía cạnh anh dũng khác của vĩ nhân này mà ta chỉ biết đượcsau khi Mẹ qua đời. Đây là một điều Mẹ dấu kín đối với mọi người, kể cả nhữngthân hữu gần gũi nhất với Mẹ: Trong cuộc sống nội tâm, Mẹ có một cảm nghiệm sâulắng, đau đớn và thường xuyên rằng Mẹ ở xa cách Chúa, thậm chí bị Người ruồngbỏ, và vì thế càng ngày Mẹ càng khao khát được Chúa yêu thương nhiều hơn. Mẹgọi cái cảm nghiệm nội tâm ấy là ‘bóng tối’. Cái ‘đêm đencay đắng’ này khởi sự từ ngày Mẹ bắt đầu công việc phục vụ người nghèovà tiếp tục mãi cho đến cuối đời, khiến Mẹ ngày càng kết hiệp mật thiết hơn vớiChúa. Qua cái tối tăm đó, Mẹ tham dự một cách huyền nhiệm vào cơn khát cùng cựcvà đau đớn của Chúa Giêsu và chia sẻ tự thâm sâu sự khốn cùng của người nghèo.

Trong những năm cuối đời, mặc cho sức khoẻ càng ngày càng giảm sút, Mẹ vẫntiếp tục điều hành Hội Dòng và đáp ứng các nhu cầu của người nghèo và của GiáoHội.

Năm 1997, số nữ tu của Mẹ Têrêxa là 4000 chị, hoạt động tại610 nhà, trong 123 quốc gia trên thế giới.

Tháng 03 năm 1997, Mẹ chúc phúc cho vị bề trên tổng quyềnmới của Hội Dòng Thừa Sai Bác Ái (chị Nirmala Joshi), rồi thực hiện mộtchuyến du hành ở nước ngoài.

Sau khi yết kiến Đức Thánh Cha lần chót, Mẹ về lại Calcutta,dành những ngày cuối đời để tiếp khách và dạy dỗ các nữ tu con cái mình.

Ngày 05 tháng 09 là ngày cuối cùng trong cuộc đời trần thếcủa Mẹ. Mẹ được tiễn đưa về vĩnh cửu theo nghi lễ quốc táng của Ấn Độ và thihài Mẹ được chôn cất tại nhà mẹ của hội dòng Thừa Sai Bác Ái. Mộ của Mẹ trởthành nơi hành hương cho mọi người, giàu cũng như nghèo.

*

Không đầy hai năm sau ngày quađời, do sự thánh thiện mà mọi người đã đồng thanh ca ngợi và những báo cáo vềcác ơn thiêng nhận được qua Mẹ, nên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho phéptiến hành xem xét hồ sơ phong thánh cho Mẹ. Ngày 20 tháng 12 năm 2002, ngài phêchuẩn sắc lệnh công nhận nhân đức anh hùng và các phép lạ của Mẹ.

Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹđược nâng lên hàng chân phước (lễ kính vào ngày 05 tháng 9). Mẹ là người đượcphong chân phước nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 nămsau ngày qua đời. Trước Mẹ, thánh Gioan Bosco và thánh Maximilian Kolbe đượcphong chân phước 30 năm sau ngày qua đời và là những người được phong chânphước nhanh nhất.

Xem thêm: tobu là ai

Chân phước Têrêxa thànhCalcutta - một người của toàn thể nhân loại, mang dòng máu Anbani, có quốc tịch Ấn độ và công dândanh dự của Hoa kỳ,nhưng lại xóa mình đến nỗi ít ai còn nhớ đến cái tên khai sinh AgnesGonxha Bojaxhiu - mãi mãi là hình ảnh của một Kitô hữu có một đức tin khônghề lay chuyển, một đức cậy bất chấp phong ba và một đức ái vượt mọi biên thùy.Lời đáp trả trước tiếng gọi của Chúa Giêsu "Hãy đến làm ánh sáng choThầy" đã biến người thành một nhà Thừa Sai Bác Ái, một ‘người mẹcủa kẻ nghèo’, một biểu tượng cho lòng thương cảm của Thiên Chúa đối vớicon người và một bằng chứng sống động cho thấy rằng Chúa Giêsu từng ngày khắckhoải chờ đợi tình yêu của mỗi một linh hồn.